Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

HAPPY NEW YEAR

CHÀO NĂM MỚI 2012!

NGUYỆN CHÚC QUÝ VỊ , CÙNG CÁC BẠN! MỘT NĂM MỚI BÌNH AN - KHỎE MẠNH- LUÔN GẶP NHIỀU MAY MẮN TRONG THÁNH Ý THIÊN CHÚA. 

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

LỄ GIÁNG SINH

LỄ   GIÁNG SINH CÓ TỪ BAO GIỜ
Nguyễn Tiến Cảnh
      Hàng năm cứ   vào ngày 25 tháng 12 là chúng ta mừng Lễ Giáng Sinh, ngày Chúa Giêsu ra đời,   nhưng ít ai để ý thắc mắc Chúa có thực sự sinh ra vào ngày này không hay lễ   này có từ bao giờ.
   Kinh Thánh không thấy có chỗ nào nói   đến các môn đệ của Chúa Giêsu mừng Sinh nhật của Chúa. Vây thì ngày lễ nghỉ   này ở đâu mà ra, và Kinh Thánh có đồng ý hoặc chấp nhận ngày lễ này không?   Những câu hỏi như vậy có ý nghĩa gì khi mà mục đích của chúng ta là vinh danh   mừng Chúa ra đời và đem các gia đình lại gần với nhau, chúc cho nhau được bình   an và đất nước có hòa bình, dân tộc yêu thương.
      Diễn viên hài   hước nổi tiếng của Hoa Kỳ Drew Carey trong một cuộc phỏng vấn do  Talk Show The View trên truyền hình thực hiện đã   làm cho khán thính giả ngỡ ngàng khi ông khuyên mọi người phải nói sự thật về   nhân vật Ông Già Noel/Santa Claus. 
  -“Tôi nghĩ   rằng –ông nói- cha mẹ và người lớn không nên nói cho trẻ nít là có ông già   Noel / Santa Claus thực sự. Đây quả là lời nói dối đầu tiên mà quí vị đã nói   với con cháu quí vị.” Ông khuyên mọi người hãy nói thiệt cho chúng biết là   “ông già Noel chỉ là nhân vật chúng ta    tạo ra để có cớ mừng mùa lễ nghỉ mà thôi”.
 -“Khi chúng   lên 5 tuổi –ông nói thêm- chúng sẽ nhận ra là cha mẹ chúng đã nói láo với   chúng suốt cả đời chúng.”
Trước đó trong   cùng một năm, đài truyền hình The Arts & Entertainment đã đưa ra một   chương trình về Lễ Giáng Sinh gọi là Christmas Unwrapped: The History of   Christmas. Người trình diễn đã nêu câu hỏi:
 -“Trên khắp   thế giới người ta mừng lễ Chúa Kitô ra đời vào ngày 25 tháng 12, nhưng tại sao   Chúa Giáng Sinh lại đi đôi với việc tặng quà, và Chúa có thực sự giáng trần   vào ngày tháng đó hay không? Cây Giáng Sinh / Christmas Tree ở đâu mà   ra?
 Ngược giòng lịch sử để tìm hiểu nguồn   gốc các ngày lễ nghỉ truyền thống của Tây Phương, thì thấy rằng Lễ Giáng Sinh   có nguồn gốc từ những ngày lễ hội của dân ngoại là lễ mừng thần Saturn của   người La Mã được phổ biến từ năm 217 BC. Khởi đầu ho ăn mừng vào dịp Đông Chí,   từ ngày 17 đến 23 tháng 12.
  Như vậy cả ông   già Noel/Santa Claus lẫn lễ Giáng Sinh thực ra chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt.   Santa Claus chỉ là nhân vật giả tưởng và Lễ Giáng Sinh cùng với những trang   trí của nó là do từ những ngày lễ hội của dân ngoại La Mã mà ra.   
 Phải chăng đó   chỉ là những tập tục truyền thống cổ xưa chứ chẳng phải là những gì thực tiễn   chúng ta có thể nhìn thấy được? Nếu cứ tiếp tục tham dự những lễ hội đó thì có   hữu ích gì không? 
LỄ  THẦN  MẶT  TRỜI  
 Nói là lễ Giáng Sinh có từ trước thời   Chúa Giêsu sinh ra thì có vẻ kỳ lạ và vô lý. Nhưng Lễ Giáng Sinh /Christmas   quả thực lại có liên hệ đến thời đại trước Chúa Giêsu Kito rất nhiều.  Những chi tiết   mừng lễ Giáng Sinh đều có vết tích của thời cổ Ai Cập, Babylon và La Mã. Sự kiện   này thực ra cũng chẳng làm tổn thương gì danh chúa Giêsu, nhưng nó đặt thành   nghi vấn về sự hiểu biết và khôn ngoan của những người mà, từ cả ngàn năm rồi,   vẫn còn cho rằng cái ngày lễ hội của dân ngoại là vĩnh cửu và đang được lan   truyền trên khắp thế giới là ngày lễ Chúa Giáng Sinh.
  Giáo Hội sơ khai chắc cũng rất ngạc   nhiên khi thấy những tập tục xưa cổ của họ bị chúng ta ngày nay đem nhập vào   lễ Giáng Sinh mừng ngày Chúa ra đời. Việc gán ghép danh Chúa Kito với ngày lễ   nghỉ của dân La Mã không phải chỉ có từ nhiều thế kỷ nay đâu. Alexander Hislop   đã viết trong sách của ông The Two Babylons: “Nhiều nhà văn nổi tiếng và uyên bác thuộc nhiều hệ phái khác   nhau cũng công nhận rằng ‘Ngày Chúa   sinh ra vẫn không thể xác định   được’, và trong Giáo Hội Kito giáo, ngày lễ gọi là Lễ Giáng Sinh cũng chưa bao   giờ nghe nói đến cho tới thế kỷ thứ 3, và cũng không phải tới thế kỷ thứ 4   người ta mới giữ ngày lễ này đâu.” (1959, pp.92-93).
 Còn về ngày 25   tháng 12 trở thành ngày Lễ Giáng Sinh thì thực ra các sách viết về lịch sử các   ngày lễ nghỉ cho biết đó là ngày đế quốc La Mã mừng Sinh nhật thần mặt   trời.  Lý do chọn ngày 25/12 là   ngày sinh nhật chúa Giêsu thì sách 4000   Years of Christmas ghi: “Vì   ngày đó là ngày thánh , không phải chỉ đối với dân ngoại La Mã mà cả một tôn   giáo lớn ở Ba Tư / Persia tức Iran bây giờ, mà hồi đó là một trong những tôn   giáo đối thủ  mạnh nhất của Kito   giáo. Đạo này thờ thần Mithra gọi là Mithraism[1], tức thờ mặt trời, ăn mừng ngày mặt trời mọc   trở lại, thêm sức mạnh cho họ (Earl and Alice Count, 1997, p.37).
 Không phải chỉ   có ngày 25/12 là ngày vinh danh sinh nhật mặt trời, mà còn là ngày lễ hội mà   các quốc gia dân ngoại vẫn giữ từ lâu để mừng những ngày sáng sủa được kéo dài   ra sau thời kỳ Đông Chí là những ngày ngắn nhất trong năm. Trước Lễ Giáng Sinh   lúc đó còn có ngày lễ hội thờ ngẫu tượng vào giữa mùa đông có đặc điểm là ăn   uống bừa phứa và mặc sức trụy lạc, đánh dấu thời kỳ Tiền Kito Giáo từ nhiều   thế kỷ trước.
MỘT KẾT HỢP   NHỮNG TẬP TỤC TIỀN KITÔ GIÁO
 Lễ hội xưa cổ   này với thời gian đã có nhiều danh hiệu khác nhau qua nhiều nền văn hóa khác   nhau. Tại Roma, người ta gọi là lễ Saturnalia để vinh danh thần Saturn, một   thần nông nghiệp của người La Mã. Lễ này đã xâm nhập vào giáo hội Roma sơ khai   và được đặt tên là Christ (“Christ mass” hay là Christmas) để thâu nhận những người   tân tòng mà họ không muốn bỏ tập tục này của họ đi, đồng thời để nâng cao con   số giáo dân của Kito giáo.
 Những vị lãnh   đạo Công Giáo ở thế kỷ 3 họ có khuynh hướng muốn tiếp cận với dân ngoại, nhưng   đã bị Tertullian, một nhà thần học công giáo lúc bấy giờ phê phán một cách khá   chua chát. Năm 230 khi nói về sự bất nhất của người Kito giáo, ông đã nói lên   cái tương phản giữa người công giáo và dân ngoại trong việc hành đạo; người   công giáo dùng chính sách co dãn mưu mẹo trong khi dân ngoại họ vẫn triệt để   trung thành với niềm tin của họ. Ông viết:       
-“Đối với   chúng ta là những người xa lạ với ngày hưu lễ Sabbaths, và cả những ngày  trăng rằm lẫn ngày lễ hội mà có lúc đã   được chấp nhận dành cho Chúa (coi    Cựu Ước Sách Levi 23: Nghi thức   các lễ hội trong năm, hiện giờ không còn giữ nữa) như lễ Saturnalia, những   ngày lễ tháng Giêng, lễ Brumalia và lễ Matronalia thì bây giờ lại đem ra thực   hành; quà tặng được trao qua lại cho nhau, những tặng vật ngày đầu năm được   thực hiện rất nhộn nhịp, những cuộc vui chơi thể thao và tiệc tùng được tổ   chức tưng bừng. Nhưng trái lại, những người theo tà giáo lại trung thành nhiều   hơn với tín ngưỡng của họ mà chẳng thèm để ý đến những lễ lạc của người Kito   giáo” (Hislop, p.93).
Thất bại trong   việc cải giáo dân ngoại, những vị lãnh đạo Giáo Hội La Mã bắt đầu điều đình để   đưa những hình ảnh tập tục tà đạo lên y phục của Kito giáo. Nhưng thay vì biến   cải niềm tin của họ về với giáo hội, giáo hội lại bị biến đổi, hội nhập vào   những tập tục không phải là Kito giáo ngay chính trong việc hành đạo của   mình.
Mặc dù lúc đầu   Giáo Hội Công Giáo sơ khai đã kiểm duyệt, muốn bãi bỏ việc mừng lễ này, nhưng   “nó đã xâm nhập quá sâu rộng trong dân chúng khó lòng xóa bỏ đi được. Cuối   cùng Giáo Hội đành phải chấp nhận, vì nghĩ rằng nếu không thể hủy bỏ được thì   phải biến nó thành lễ “Giáng Sinh” tôn vinh Chúa Kito. Một khi được gắn cho   cái nhãn hiệu nền tảng là Kito giáo thì ngày lễ hội trở thành chính thức ở Âu   Châu với rất nhiều dấu vết của dân ngoại mà chẳng ai còn thắc   mắc nữa”. ( Man, Myth & Magic: The Illustrated Encyclopedia of Mythology,   Religion, and the Unknown, Richard Cavendish, editor 1983, Vol.2, p.480,   “Christmas”)
ĐÃ QUYẾT   ĐỊNH THÌ CỨ LÀM 
 Một số người   đã thẳng thắn phản đối việc làm như vậy vì cho rằng có hại về mặt thiêng   liêng. “Những vị đó đã cố gắng ngăn cản   sóng thủy triều, nhưng dù có biết bao cố gắng để ngăn chặn, việc làm đó vẫn cứ   tiếp tục, cho đến khi Giáo Hội hoàn toàn bị tràn ngập bởi  những tập tục dị đoan của dân ngoại.   Đó là Lễ Giáng Sinh nguyên thủy, ngày lễ của dân ngoại, nó đã trở thành hiện   thực không chối cãi được. Ngày tháng trong năm và những nghi lễ mà hiện vẫn   còn cử hành đã nói lên  nguồn gốc   của nó” (Hislop p.93).
 Nhà thần học   Tertulian nói trên đã tách ra khỏi giáo hội Roma vì bất đồng chính kiến. Ông   không phải là người duy nhất bất đồng với ý tưởng đó. “Vào cuối năm 245,   Origen, trong bài giảng thứ 8 về sách Levi, đã khước từ ý tưởng giữ ngày sinh   nhật của Chúa Kitô như là một ông vua Pharaoh”. (The Encyclopaedia Britannica,   11th edition, Vol 6, p.293, “Christmas”).
Lễ Giáng Sinh   chỉ được công nhận là ngày lễ nghĩ của La Mã vào năm 534 (ibid). Như vậy phải   mất 300 năm cái tên mới cùng với những biểu tượng của Lễ Giáng Sinh mới thay   thế những tên cũ và ý nghĩa của ngày lễ hội giữa mùa đông, một ngày lễ hội của   dân ngoại có từ nhiều thế kỷ trước.
NGUỒN   GỐC ÔNG GIÀ NOEL/SANTA CLAUS        
  Làm sao ông   già Noel/Santa Claus lại xuất hiện với đầu tóc bạc phơ và bộ râu dài lê thê   tới rốn? Tại sao hình ảnh thần thoại này lại được gắn liền với Lễ Giáng   Sinh?
 “Santa Claus”   nghĩa là sự suy đồi của Mỹ Châu, từ tiếng Đức mà ra là Sinterklaas, chữ viết ngắn lại của   Sint Nikolaas, một hình ảnh do một   người di dân Đức hồi sơ khai mang qua Mỹ Châu. Danh xưng này, sau được đổi lại   thành St.Nicholas, tên một vị giám mục ở thị trấn Myra ở Nam Tiểu Á, một vị   thánh công giáo tử vì đạo mà người Hy Lạp và Latin tôn kính vào ngày 6 tháng   12.
Thánh Nicholas   là giám mục thành Myra sống vào thời hoàng đế La Mã Diocletian   trị vì. Ông bị hành quyết vì niền tin công giáo, bị tra tấn, hành hạ và bỏ   ngục, cầm tù cho tới triều đại Constantine là thời kỳ tương đối dễ dãi hơn.   (The Encyclopaedia Britannica, 11th edition, Vol.19,p.649,   “Nicholas, St.”). Còn nhiều chuyện nữa mà người ta cho rằng có liên quan tới   Christmas và St.Nicholas, tất cả những việc phải làm như là tặng quà cho nhau   vào ngày trước lễ thánh Nicholas, sau này được chuyển qua là lễ Giáng Sinh   (ibid). Đó phải chăng là lý do của tập tục tặng quà nhau trong dịp Giáng   Sinh?
 Đến đây, chúng   ta có thể đặt nghi vấn, làm sao một giám mục từ miền bờ biển Địa Trung Hải   nắng ấm của Thổ Nhĩ Kỳ lại có thể liên quan tới một ông già sống ở miền cực   Bắc ngồi trên chiếc xe trượt tuyết kéo bởi nhũng con nai bay lướt ở trên   trời?
 Đành rằng   chúng ta đã biết là Lễ Giáng Sinh nguồn gốc từ trước thời đại Kito Giáo, chúng   ta cũng không ngạc nhiên thấy rằng Santa Claus chẳng là gì cả ngoài những hình   ảnh được sao chép lại từ niềm tin tôn giáo của dân ngoại thời cổ xa   xưa.
Những hình ảnh   tưởng tượng có tính phỉnh gạt liên quan tới ông già Santa Claus với bộ quần áo   màu đỏ, mũ đỏ, có viền lông trắng, xe trượt tuyết và nai bay trên trời cũng   cho thấy nguồn gốc từ miền giá lạnh xa vời ở cực Bắc. Cũng có những nguồn tin   cho rằng Santa Claus có dấu vết liên hệ đến các vị thần Odin (hay Woden) và   Thor ở Bắc Âu / Na Uy cổ xưa (Count, pp.56-64). Thần Odin được hình dung với   bộ râu dài trắng toát, mà tục truyền rằng đã bay trên trời bằng con ngựa  8 chân Sleipnir.
Một vết tích   khác, mặc dù rất xa xưa, là Santa Claus có liên hệ tới thần Mặt Trời Saturn   của La Mã và thần Silenus của Hy Lạp, bạn đồng hành và là giám hộ của thần   rượu Dionysus ( William Wash, The Story   of Santa Claus, pp.70-71).
CÓ PHẢI   CHÚA GIÊSU SINH RA VÀO THÁNG 12 KHÔNG
 Những học giả   kinh thánh uy tín nghiên cứu về ngày sinh của Chúa Giêsu đã đi đến kết luận là   chẳng có một dữ kiện căn bản nào cho thấy chúa sinh ra vào khoảng ngày 25   tháng 12.  Alexander Hislop nêu rõ   là: 
 -“Không có một chữ   nào trong Kinh Thánh nói rõ ràng ngày giờ sinh tháng đẻ của Chúa cả. Những   điều đã ghi chép lại cũng chẳng ám chỉ là Chúa sinh ra vào ngày 25/12.                                
  -“Lúc mà các thiên   thần báo tin Chúa sinh ra cho các trẻ chăn chiên ở Bethlehem là lúc chúng đang   cho chiên bò ăn ở giữa cánh đồng trống lúc đêm tối. Khí hậu ở Palestine từ   tháng 12 đến tháng 2 là thời gian lạnh buốt ghê gớm, và theo tục lệ thì  thời gian đó không phải là thời gian   các mục đồng ở xứ Judea canh chừng súc vât của chúng ở ngoài đồng trống, mà   thực sự chậm lắm là chỉ tới cuối tháng 10 thôi” (p.91, emphasis in   original).
 Ông tiếp tục   cắt nghĩa là mưa thu bắt đầu rơi vào tháng 9 hoặc tháng 10 ở Judea có nghĩa là   những biến cố xẩy ra chung quanh ngày Chúa ra đời được ghi trong Kinh Thánh   không thể xẩy ra sau trung tuần tháng 10. Vậy ngày Chúa sinh ra có thể là vào   khoảng đầu thu (p.92).
 Một sự kiện   nữa yểm trợ cho ý kiến Chúa Giêsu sinh vào mùa Thu là người La Mã rất khôn   ngoan và thông minh, họ sẽ không định thời gian kiểm tra dân số vào chính giữa   mùa đông, lúc khí hậu rất khắc nghiệt, mà phải vào thời gian với những điều   kiện thời tiết dễ chịu hơn nhiều.
 Ông Giuse là dân Bethlehem nên phải di chuyển gia đình từ Nazareth, xứ Galilee về Bethlehem cùng với vợ là Mary đang có thai   sắp đến ngày sanh. Do đó không có lý do gì mà ông cùng với Mary lại làm một   cuộc hành trình dài vào mùa đông giá lạnh như vầy. Theo Tin Mừng Phúc Âm thánh   Luca thì Mary hạ sanh chúa Giêsu vào đúng thời gian hoàng đế La Mã là   Augustine cho kiểm tra dân số trên cả nước, mà theo sự khôn ngoan chẳng ai lại   lên chương trìng này vào tháng 12 giá lạnh cả.
KẾT  CỤC:  CÓ GÌ  KHÁC  BIỆT  KHÔNG?
Kinh Thánh thì   chẳng đưa ra lý do gì -và chắc chắn cũng không có một chỉ dẫn nào- để yểm trợ   cho câu chuyện Lễ Giáng Sinh và Ông già Noel/Santa Claus. Nhưng lễ Giáng Sinh   với ông già Noel / Santa Claus thì vẫn là một sự thực, một tập tục, một thói   quen đã được chấp nhận và trở thành hiển nhiên chẳng ai thắc mắc. Christmas /   Lễ Giáng Sinh là lễ kỷ niệm ngày chúa Giêsu sinh ra để cứu chuộc nhân loại.   Ông già Santa Claus thì là một nhân vật thần thoại giả tưởng làm chuyện vui   cho trẻ nít, câu chuyện luân lý để dạy trẻ nít biết vâng lời bố mẹ, ngoan   ngoãn. Người lớn thì có dịp nghỉ thư dãn, tặng quà, kỷ vật cho nhau, gia đình   xum họp trong cảnh thanh bình ấm cúng thương yêu. Ngoài những sinh hoạt êm ấm   trong gia đình còn có những sinh hoạt ồn ào bên ngoài như hội hè, tụ họp ăn   uống, nhậu nhẹt, nhảy đầm vui chơi…..
  Lễ Giáng Sinh đã trở   thành phổ quát trong dân gian trên khắp các nẻo đường thế giới, không riêng gì   cho người Công Giáo / Kitô Giáo mà cho cả những người thuộc các tôn giáo khác   hoặc vô thần…Những người không phải công giáo thì coi Lễ Giáng Sinh là dịp lễ   hội, nghỉ thư dãn, vui chơi, ăn nhậu thả dàn. Ở Sàigon trước 1975 (tôi không   biết bây giờ dưới chế độ XHCN thì thế nào), đêm Giáng Sinh, trong khi ở trong   các thánh đường,  giáo dân tụ tập   lại, chăm chú dâng lễ, đọc kinh, hát những bài thánh ca mừng Chúa ra đời, thì   ngoài đường phố thiện nam tín nữ áo quần bảnh bao chen chúc nhau dạo phố, xe   cộ và người qua lại như trẩy hội. Tôi không hiểu họ đi đâu?, để làm gì?. Cứ   đi, cứ đi…theo giòng người đi như nước chảy. Xem đèn ông sao? Xem phố phường?   Xem người? Xem xe cộ chạy? Ai mà biết nhỉ? Ở hải ngoại Hoa Kỳ, sau những ngày   mệt mỏi shopping để tiêu tiền, mua quà tặng, sửa soạn giáng sinh, trang hoàng   trong nhà ngoài ngõ, đêm Giáng Sinh người ta vui hưởng cảnh ấm cúng gia đình   trong nhà nhiều hơn. Dĩ nhiên cũng có những hội họp chè chén nhậu nhẹt ngoài   qu án rượu, tiệm ăn. 
    Giáng Sinh đã   phổ quát đến độ nó không còn giới hạn trong phạm vi tôn giáo nữa. Họ chúc nhau   một mùa nghỉ vui tươi đầm ấm và hạnh phúc. Ngày nay có những  phong trào / tư tưởng không gọi ngày   lễ này là Lễ Giáng Sinh mà gọi là Mùa Lễ Nghỉ. Holidays Season. Người ta ăn   chơi hưởng thụ, làm bất cứ cái gì họ muốn trong khi trong các thánh đường đèn   nến sáng trưng, vẫn vang vọng tiếng hát mừng Chúa ra đời:   
                             Vinh danh Thiên Chúa trên trời


                          Bình an dưới thế cho người thiện tâm
       Lễ Giáng Sinh   hiển nhiên vẫn là biểu hiệu của Bình An và Hòa Bình của Chúa Cứu Thế. Đâu có   gì phải chê trách, có chăng là tâm con người vẫn không có hòa bình và tình yêu   thương.


Fleming   Island, Florida


9-12-2011


NTC 

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

CHUYỆN GIÁNG SINH

 Một chuyện tình cảm động nhân dịp Giáng Sinh


Quà giáng sinh
O-Henry
Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.

Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhầm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ giáng sinh.

Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.

Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.

Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm Jim, James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.

Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.

Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.

Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.

Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh. Thứ còn lại là mái tóc của Della.
Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.

Della bước chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu "Madame Eloise". Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ "Eloise" nào cả.

Della cất tiếng hỏi: "Bà mua tóc tôi không?"

- "Tôi chuyên mua tóc mà", bà ta đáp và bảo : "Hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi".

Suối tóc nâu đẹp tụyệt vời buông xuống.

- "Hai mươi đồng" - bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.

- "Hãy cắt nhanh đi! và đưa tiền cho tôi" - Della nói.

Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Ðó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.

Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.

Ðến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm :"Mình có thể làm gì với nó đây?". Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. "Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!". Cô tự nhủ: "Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?"

Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.

Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cát áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: "Ðừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói "Giáng sinh vui vẻ", em có một món quà rất hay cho anh này!"

- Em đã cắt mất tóc rồi à? - Jim hỏi.

- Ðúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà! - Della nói.

Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: "Em nói là em đã bán tóc à?"

- Ðúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?

Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: "Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy".

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!

Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc: "Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim", nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.

- Ðẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này.

Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cuời nói: "Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em ạ".

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

ÔNG GIÀ NOEL

ÔNG GIÀ NOEL LÀ AI?
Thành Patara thơ mộng, một thành phố cổ thuộc miền Tiểu Á, ngày nay nằm ở vùng nam duyên hải Thổ Nhĩ Kỳ.  Trên ngọn đồi, Nicholas ngồi bên tảng đá, chàng hết ngắm nhìn biển xanh rồi lại quay nhìn ngôi nhà xinh xắn của chàng.  Rất nhiều lần chàng đã ngắm nhìn như thế, nhưng hôm nay chàng mới để ý nhà chàng đẹp và sang trọng nhất thành.  Chàng liên tưởng tới song thân đạo hạnh mới lần lượt vĩnh biệt chàng đi vào thế giới vô hình, để lại cho chàng một gia tài kích xù.  Chàng nhớ đến những chiếc rương nặng, đầy vàng bạc và châu báu đang khóa kỹ tại kho tàng nhà chàng…..

Nicholas chậm rãi hướng cặp mắt lên bầu trời muôn mầu sắc lúc hoàng hôn, chàng thầm thĩ cầu nguyện:
-          Lạy Chúa, Ngài biết rằng con không cần đến mọi của cải đó.  Con ước ao phụng sự Ngài.  Xin Ngài dậy con phải làm gì!
Nicholas hiểu rằng Chúa sẽ không trực tiếp trả lời chàng, nhưng chàng tin rằng Ngài sẽ đáp lại lời nguyện cầu của chàng bằng cách này hay cách khác.  Vì thế, chàng chờ đợi…
Một hôm, Nicholas cỡi ngựa qua một xóm nghèo.  Bọn trẻ quần áo xác xơ, cả lũ ngừng chơi nhìn chằm chặp vào chàng thanh niên đẹp trai cỡi trên lưng con ngựa quí.  Lập tức, Nicholas đọc được trong những đôi mắt và trên thân hình gầy gò của chúng sự nghèo túng, đói khát và đáng thương.  Đột nhiên chàng nhớ lại lời Chúa Kitô: “Các con làm điều gì cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em Ta đây, chính là các con làm cho Ta”.  “Những kẻ bé Mọn! Các trẻ nhỏ!”  Nicholas tự nghĩ, “ Chúa muốn tôi giúp đỡ các trẻ nhỏ”.  Lập tức chàng quay ngựa đi thẳng đến phố chợ.  Tại đây, chàng mua sắm những quần áo sặc sỡ, những đôi giầy đủ mầu đủ cỡ, rồi chàng xin những người bán hàng chất các rổ, các thúng với mọi thứ thịt thà, bánh kẹo, hạt giẻ và trái cây.  Đồng thời chàng nhờ họ giữ thứ đó cho tới khi chàng trở lại.
Đêm ấy, khi thành phố đã yên giấc, bọn trẻ đã ngủ say, Nicholas bí mật đi từ nhà này sang nhà khác, qua những cửa sổ mở trống, chàng đặt trên sàn nhà từng chiếc rổ, chiếc thúng đầy ắp những bánh quà, thịt thà và quần áo.  Chàng không quên bốc những nắm kẹo và hạt giẻ bỏ vào những đôi giầy mới để gây ngạc nhiên cho bọn trẻ.
Cứ thế, từ hôm này qua hôm khác, ban ngày Nicholas đi tìm kiếm kẻ nghèo đói, đêm đến chàng rảo qua các nhà, bí mật bỏ lại những món quà.
Chẳng mấy chốc, người trong thành đã xôn xao bàn tán, họ hỏi nhau:
-          Ai là người đã bí mật trao tặng chúng ta những món đồ cần thiết, mà chúng ta không hay biết?
Khi nghe được những lời bàn tán của dân chúng, Nicholas tạm ẩn mặt một thời gian.  Chàng chỉ muốn một mình Chúa biết việc chàng làm.  Chàng tự nghĩ: “Nếu mình nhận lời cám ơn về việc mình làm, thì ra như đã nhận công thưởng đời này rồi!”
Ngày kia, Nicholas nghe kể về một người bạn của cha chàng, ông ta cũng là người thành Patara, nhưng làm ăn suy xụp.  Do sự suy xụp này ông ta không đủ tiền để sắm sửa cho ba cô con gái đã đến tuổi thành hôn.  Ông ta dự tính sẽ gửi cả ba đứa con vào làm cho một tửu quán gần nhà, để chúng có thể kiếm tiền lập gia đình.  Khi nghe câu truyện, Nicholas tỏ ra rất bực tức, vì cũng như mọi người trong thành, chàng biết rằng người chủ quán là một kẻ tội lỗi.  Những nàng con gái làm trong tửu quán đó không khỏi đi theo đàng tội!
Ngay đêm đó, Nicholas bỏ đầy một túi nhỏ những đồng tiền vàng, đi thẳng tới nhà người bạn của cha chàng.  Qua cánh cửa sổ đang mở, chàng thẩy túi vàng trên bàn, nơi người con gái lớn đang ngồi.  Khi nghe tiếng la sửng sốt của cô con gái vì túi vàng bỗng dưng từ đâu bay tới, Nicholas lanh lẹ trốn mất!  Không lâu sau đó, chàng nghe kể cô ta đã lập gia đình trong hạnh phúc.  Nhưng hai cô em còn ở lại nhà vì chưa có tiền!
Rồi chẳng bao lâu, Nicholas lại lần mò đến, chàng thẩy một túi vàng khác vào chỗ cô gái kế, và cũng nhờ túi vàng này, người con gái lập được tổ ấm hạnh phúc.
Thời gian kén rể cho cô con gái út đã đến, đêm nào cũng thế, người cha cẩn thận rình mò gần cửa sổ.  Ông nói với cô con gái cưng:
-          Ba cần phải biết ai đã giúp đỡ chúng ta, để chúng ta còn nói với người một lời cám ơn.
Đêm đó, Nicholas lại bí mật ném túi vàng thứ ba qua cửa sổ.  Nhưng bỗng nhiên tay chàng bị nắm lại.  Chàng bị bắt quả tang!
-  À thì ra anh Nicholas, chính anh là người đã cho chúng tôi những túi vàng!  Chúng tôi cần phải biết vị ân nhân của chúng tôi.  Xin mời anh vào trong nhà, để chúng tôi còn tỏ lòng biết ơn anh.
-  Không!  Không!  Tôi không muốn việc tôi làm bị bại lộ.  Cách tốt nhất ông tỏ lòng biết ơn tôi là xin hứa với tôi, sẽ không bao giờ nói cho ai biết việc tôi đã làm.
Sau đó, Nicholas chẳng những dâng hiến của cải và thời giờ cho Chúa, chàng còn dâng mình để trở thành một linh mục.  Rồi một thời gian sau, ngài được chọn làm Giám Mục thành Myra, không xa Patara là bao.  Lòng nhân ái và qủang đại đối với người nghèo của Ngài đồn ra khắp nơi.
Người ta kể rằng, một đêm bão tố khủng khiếp tại biển Aegean, Nicholas cứu nguy một chiếc tầu đã hầu chìm đắm nhờ kêu cầu sự trợ giúp của Thiên Chúa.  Do câu truyện này, các thủy thủ ở miền đó thường kêu tên Nicholas trước các chuyến hải hành.  Họ chúc nhau một cuộc hành trình tốt đẹp khi nói:
-          Xin thánh Nicholas cầm lái!
Nhiều huyền thoại xoay quanh cuộc đời Đức Giám Mục Nicholas, Đấng sau này đã được phong thánh.  Cùng với thánh Anrê Tông Đồ, Ngài là Quan Thầy nước Nga.  Tại Đức, Thụy Sĩ và Hòa Lan người ta tỏ lòng tôn kính thánh Nicholas bằng nhiều tục lệ tốt đẹp.  Dần dà, Ngài được coi như một vị thánh của trẻ nhỏ.
Trong đêm vọng lễ kính Ngài, ngày 6 tháng 12, trẻ em thuộc nhiều quốc gia đặt giầy của chúng ra ngoài nhà để cho thánh Nicholas bỏ đầy kẹo bánh và đồ chơi.  Nếu chúng vẫn tỏ ra ngoan ngoãn, chúng có quyền hy vọng như vậy.
Người Hòa Lan đã đem những tục lệ này vào Mỹ.  Thánh Nicholas hay “Saint Klaus” của người Hòa Lan từ đó được biết như “ông già Noel” (Santa Claus).  Rồi thay vì đặt giầy ra ngoài nhà vào đêm vọng lễ thánh Nicholas, các trẻ em Mỹ treo những đôi vớ của chúng vào đêm Sinh Nhật để được “ông già Noel” bỏ đầy kẹo bánh và đồ chơi.
Thánh Nicholas qua đời tại Myra vào thế kỷ thứ 4.  Nhiều nhà thờ tại Á Châu và Âu Châu được xây dựng để kính nhớ Ngài.  Thế kỷ 17, khi quân Thổ Nhĩ Kỳ tấn công Myra, nước Ý.  Người ta đã di hài cốt Ngài về táng tại Pari, nước Ý và tại đó hài cốt Ngài vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Raymond Thư, Lm, CMC

Bài đăng phổ biến